CuoäC soáng Cuûa ngöôøi Chieán só Vieät Minh

5
106 CUOÄC SOÁNG CUÛA NGÖÔØI CHIEÁN SÓ VIEÄT MINH THÔØI KYØ KHAÙNG CHIEÁN CHOÁNG THÖÏC DAÂN PHAÙP 1945-1954 Nguyễn Thị Tường Khanh * Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước 1945, Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thành lập ngày 19/5/1941 là một sáng tạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Việt Minh là một tổ chức liên minh chính trị (trong đó, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng là một bộ phận trong Việt Minh - bộ phận nòng cốt và lãnh đạo) nhằm đoàn kết liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái chính trị, các đoàn thể dân chúng yêu nước, cùng đánh đuổi Nhật - Pháp, giành quyền độc lập cho dân tộc Việt Nam, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. áng 3/1951, Việt Minh hợp nhất với Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, lấy tên là Mặt trận Liên Việt nhưng vẫn được mọi người quen gọi là Việt Minh. Qua các hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, của các nhà lãnh đạo Việt Minh, của một số nhân chứng, các tư liệu lịch sử, ảnh, báo chí xuất bản trong thời kỳ này, tác giả bài viết mong muốn phác họa đôi nét về hình ảnh, cuộc sống của người chiến sĩ Việt Minh đã tham gia chiến đấu trong những năm 1945-1954 tại chiến khu Việt Bắc, các vùng kháng chiến ở miền Trung và Nam bộ, tại các chiến trường quan trọng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Vậy người lính Việt Minh là ai? Họ từ những nông dân, thợ thuyền, trí thức tự nguyện gia nhập các đội tự vệ, dân quân, du kích và các lực lượng vũ trang quân đội nhân dân Việt Nam trong Mặt trận Việt Minh để chiến đấu bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Họ là những người chiến đấu vô cùng dũng cảm, sẵn sàng hy sinh, sống có lý tưởng, mục đích, chịu đựng, vượt qua mọi gian khổ, khó khăn để chiến thắng kẻ thù. Những năm cuối thập kỷ 40 của thế kỷ trước, nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp trong đơn độc, trong vòng vây của chủ nghĩa thực dân, không có sự hỗ trợ của quốc tế về vật chất. Trong điều kiện sống và chiến đấu trường kỳ, tự lực cánh sinh, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, các nhu cầu về ăn, mặc, ở, vũ khí súng đạn của bộ đội vô cùng khó khăn, thiếu thốn. iếu vũ khí trong chiến đấu, với tinh thần sáng tạo, người lính Việt Minh tự sản xuất, chế tạo nhiều loại vũ khí còn thô sơ nhưng có công hiệu không nhỏ. Trong 60 ngày đêm chiến đấu ác liệt bảo vệ Hà Nội cuối năm 1946, các quyết tử quân đã ôm bom ba càng lao vào tiêu diệt xe tăng Pháp. Đây là một loại bom hình chóp nón, đáy lõm, có ba càng, được làm bằng gang hàn kín, bên trong chứa thuốc nổ, bên ngoài có kíp nổ. Đến đầu 1947, súng bazôka được nghiên cứu, chế tạo thành * ThS. Phó Trưởng phòng Truyền thông, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Transcript of CuoäC soáng Cuûa ngöôøi Chieán só Vieät Minh

Page 1: CuoäC soáng Cuûa ngöôøi Chieán só Vieät Minh

106

CuoäC soáng Cuûa ngöôøi Chieán só Vieät Minh thôøi kyø khaùng Chieán Choáng thöïC daân PhaùP 1945-1954

Nguyễn Thị Tường Khanh*

Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước 1945, Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thành lập ngày 19/5/1941 là một sáng tạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Việt Minh là một tổ chức liên minh chính trị (trong đó, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng là một bộ phận trong Việt Minh - bộ phận nòng cốt và lãnh đạo) nhằm đoàn kết liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái chính trị, các đoàn thể dân chúng yêu nước, cùng đánh đuổi Nhật - Pháp, giành quyền độc lập cho dân tộc Việt Nam, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 3/1951, Việt Minh hợp nhất với Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, lấy tên là Mặt trận Liên Việt nhưng vẫn được mọi người quen gọi là Việt Minh.

Qua các hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, của các nhà lãnh đạo Việt Minh, của một số nhân chứng, các tư liệu lịch sử, ảnh, báo chí xuất bản trong thời kỳ này, tác giả bài viết mong muốn phác họa đôi nét về hình ảnh, cuộc sống của người chiến sĩ Việt Minh đã tham gia chiến đấu trong những năm 1945-1954 tại chiến khu Việt Bắc, các vùng kháng chiến ở miền Trung và Nam bộ, tại các chiến trường quan trọng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.

Vậy người lính Việt Minh là ai? Họ từ những nông dân, thợ thuyền, trí thức tự nguyện gia nhập các đội tự vệ, dân quân, du kích và các lực lượng vũ trang quân đội nhân dân Việt Nam trong Mặt trận Việt Minh để chiến đấu bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Họ là những người chiến đấu vô cùng dũng cảm, sẵn sàng hy sinh, sống có lý tưởng, mục đích, chịu đựng, vượt qua mọi gian khổ, khó khăn để chiến thắng kẻ thù.

Những năm cuối thập kỷ 40 của thế kỷ trước, nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp trong đơn độc, trong vòng vây của chủ nghĩa thực dân, không có sự hỗ trợ của quốc tế về vật chất. Trong điều kiện sống và chiến đấu trường kỳ, tự lực cánh sinh, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, các nhu cầu về ăn, mặc, ở, vũ khí súng đạn của bộ đội vô cùng khó khăn, thiếu thốn.

Thiếu vũ khí trong chiến đấu, với tinh thần sáng tạo, người lính Việt Minh tự sản xuất, chế tạo nhiều loại vũ khí còn thô sơ nhưng có công hiệu không nhỏ. Trong 60 ngày đêm chiến đấu ác liệt bảo vệ Hà Nội cuối năm 1946, các quyết tử quân đã ôm bom ba càng lao vào tiêu diệt xe tăng Pháp. Đây là một loại bom hình chóp nón, đáy lõm, có ba càng, được làm bằng gang hàn kín, bên trong chứa thuốc nổ, bên ngoài có kíp nổ. Đến đầu 1947, súng bazôka được nghiên cứu, chế tạo thành

* ThS. Phó Trưởng phòng Truyền thông, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Page 2: CuoäC soáng Cuûa ngöôøi Chieán só Vieät Minh

Thông báo Khoa học số 2 - 2013

107

công ở chiến khu Việt Bắc và trong khu rừng Sác thuộc Bà Rịa - Vũng Tàu. Súng bắn đạn lõm, có độ nóng lên tới 3.000oC, dễ dàng xuyên thủng vỏ xe tăng, xe bọc thép, tàu thủy của đối phương.

Những người lính làm công tác địch vận trong kháng chiến cũng có nhiều sáng kiến: xuất bản báo Tia Sáng (1946-1950) - tờ báo địch vận đầu tiên của Việt Minh bằng tiếng Pháp, làm các chương trình phát thanh, đến nói chuyện tại các trại giam tù binh Pháp, kể các câu chuyện về văn hóa Việt Nam, về nỗi niềm của người lính xa nhà, về những giấc mơ hòa bình của người lính lê dương trong đội quân viễn chinh. Trong chiến dịch Biên Giới thu đông 1950, anh nuôi, bộ đội tìm tàn binh Pháp lẩn trốn trong rừng bằng cách cắm nắm cơm lên đầu một cây gậy tre giơ cao thay lời kêu gọi bằng tiếng Pháp mà họ không biết nói. Thương binh, tù binh Pháp càng thấm thía hơn khi được người chiến sĩ không cùng chiến tuyến cho uống từng ngụm nước, nhường cả khẩu phần ăn ít ỏi của mình cho những người mà chỉ ít giờ trước đó, hai bên cùng sẵn sàng sinh tử.

Sau trận chiến, để đảm bảo lương thực, bộ đội tự tăng gia sản xuất, trồng sắn, ngô, tự cấp tự túc. Bữa ăn chỉ có khoai, sắn, ngô, măng rừng chấm muối, cơm vắt, muối vừng hoặc mấy bánh lương khô được Trung Quốc viện trợ sau năm 1950. “Nửa đêm, dọc đường hành quân, vừa ngồi nghỉ vừa nhai mấy nhúm gạo rang lót dạ”, uống nước cơm cháy đựng trong ống bương (Nhiều tác giả 2007: 937).

Năm 1949, tiền sinh hoạt phí của bộ đội chỉ đủ mua 7-8kg gạo (Nhiều tác giả 2007: 620). Cuối 1952, do bị bão lớn, ở vùng căn cứ Dương Minh Châu (Nam bộ), tiêu chuẩn gạo của bộ đội có lúc chỉ còn 2,5kg gạo/tháng, phải ăn cháo, thậm chí không đủ gạo nấu cháo cho thương binh (Võ Nguyên Giáp 2006:185). Trong chiến dịch Tây Bắc, đời sống của bộ đội càng khó khăn hơn khi dân công, mặc dù với khẩu phần ăn hàng ngày đã rất hạn chế, đã ăn hết 92% số gạo vận chuyển ra mặt trận (Nhiều tác giả 2007: 846). Việc nấu cơm phục vụ bộ đội ở chiến trường thường phải làm ban đêm và nhiều lần bị địch phát hiện dẫn đến nhiều tổn thất xương máu. Chiến sĩ nuôi quân Hoàng Cầm (thuộc đại đoàn 308) đã có sáng kiến đào những đường rãnh thoát bên sườn núi nối liền với bếp nấu, bên trên rãnh đặt cành cây và phủ một lớp đất mỏng được tưới nước để giữ độ ẩm. Khói từ các bếp nấu bốc lên qua các đường rãnh, chỉ còn là một dải hơi nước tan nhanh khi rời khỏi mặt đất. Từ đó anh nuôi có thể thổi nấu ban ngày, bộ đội được ăn uống nóng trong mùa đông giá lạnh (Nhiều tác giả 2007: 799). Chiến dịch Điện Biên Phủ đầu 1954, bộ đội mang theo đỗ làm giá thay rau tươi trên dọc đường hành quân.

Bộ đội Việt Nam cho tù binh Pháp uống nước trong chiến dịch Biên Giới, năm 1950

Page 3: CuoäC soáng Cuûa ngöôøi Chieán só Vieät Minh

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

108

Những ngày đầu kháng chiến, “quần áo bộ đội phần lớn do anh em mang từ gia đình đi. Nhiều đơn vị thành lập một thời gian dài vẫn không đủ quần áo cấp cho bộ đội” (Nhiều tác giả 2007: 444). Năm 1946 - 1947, tự vệ đội mũ ca lô gắn phù hiệu vuông nền đỏ sao vàng “chiếc mũ ca lô có đính ngôi sao vàng Vệ quốc quân” (Đào Văn Xuân 2004: 76). Hành trang của người chiến sĩ chỉ có “một đôi dép lốp, thuốc ký ninh và thuốc Stovarsol, dạng ống chữa đi lỵ, đi kiết” (Đào Văn Xuân 2004: 90). “Các chiến sĩ tự sắm dép cao su, làm lấy mũ nan, bi đông bằng ống tre, bát bằng ống bương, ba lô, giỏ lựu đạn bằng tre mây.” (Nhiều tác giả 2007: 444). Cuối năm 1947, vào mùa đông, bộ đội có thêm áo trấn thủ. Áo trấn thủ rất đơn giản, ngắn đến thắt lưng, cổ tròn, không có tay áo. Gồm có hai mảnh: mảnh trước và mảnh sau, nối liền nhau ở cạnh sườn và một bên vai. Cạnh sườn và trên vai bên kia thì cài cúc. Mỗi mảnh áo may hai lần vải, ở giữa nhồi bông, chần hình quả trám. Áo gọn gàng, giữ nhiệt tốt. Những năm kháng chiến gian khổ hiếm bông, có thời kỳ phải dùng lông vịt hay vỏ cây sui đập dập, phơi khô thay bông. Cúc, khuy cũng thiếu, phải dùng dây vải buộc hoặc làm cúc bằng giấy ép tẩm sơn thay thế. Chiếc mũ bộ đội thường dùng được đan bằng tre, hoặc làm bằng lá cọ nhưng có đặc điểm là bọc vải chùm cả vành mũ, bên ngoài phủ một tấm lưới có đính rải rác những miếng vải dù hoa xé nhỏ để ngụy trang. Có trường hợp mũ chỉ bọc vải dù hoa. Chân đi đôi dép lốp cao su đen (từ khu Bốn trở ra được gọi là dép Bình Trị Thiên). Xuất hiện đầu năm 1947, dép cao su là một sáng tạo có giá trị lịch sử, giải quyết được đồ đi cho bộ đội, người dân suốt thời gian kháng chiến chống Pháp và mãi về sau này. Chiến sĩ lấy lốp xe ôtô, đo chân cắt thành đế dép, dùi tám lỗ để xỏ quai bằng cao su đen lấy từ xăm ô tô: hai quai chéo phía trên, hai quai ngang phía dưới làm quai hậu và quai vòng. Bề ngang các quai khoảng 1 cm. Điều kì lạ là giữa quai và đế được cố định chắc chắn vào nhau không bằng bất cứ một thứ keo kết dính nào mà nhờ vào sự giãn nở của cao su. Đó là những đôi dép rất đơn giản, bền, tiện sử dụng, dễ làm, dễ bảo quản, vệ sinh, thích ứng trong mọi điều kiện địa hình, khí hậu, thời tiết ở vùng rừng núi trong kháng chiến. Chiếc mũ nan lớp vải, áo trấn thủ và đặc biệt là đôi dép được cắt từ lốp và ruột xe ôtô cũ đã qua sử dụng làm hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ thời kỳ chống Pháp thật giản dị, gần gũi và thân thương. Đến chiến dịch Tây Bắc năm 1952, để chống cái rét của vùng rừng núi, bộ đội được phát áo trấn thủ dài tay (như một thứ blu-dông bông). Ngoài ra, do thu được nhiều dù chiến lợi phẩm, mỗi người thường dùng một miếng dù to, khi hành quân thì ngụy trang, trời rét thì quàng cổ, đêm ngủ thì làm chăn đắp. Năm 1953, bộ đội bắt đầu được trang bị quân phục thống nhất.

Bộ đội vừa hành quân vừa học văn hóa thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp

Page 4: CuoäC soáng Cuûa ngöôøi Chieán só Vieät Minh

Thông báo Khoa học số 2 - 2013

109

Chiến dịch Điện Biên Phủ đầu 1954, “các chiến sĩ mặc áo bông mới dài tay, súng đạn, balô, bao gạo đầy ắp trên người, đi hàng một nuối đuôi nhau bước gấp ra trận địa. Chiếc cọc màn, dây phơi quần áo được chuẩn bị sẵn để có chỗ ngủ tươm tất. Trước khi đi ngủ, từng tổ ba người khoét một hố nhỏ, lót nilông bên dưới rồi đổ nước ấm pha muối để cùng ngâm chân” (Nhiều tác giả 2007: 911).

Phát huy sở trường đánh địch trên chiến trường rừng núi, đánh đêm, đánh gần, trong những lần hành quân trong đêm tối, bộ đội thường lấy lá mục hoặc mảnh tre mục cài lên mũ hoặc sau lưng để người sau nhận ra người đi trước qua những đốm sáng lân tinh. Thời gian hành quân được bộ đội biến thành những giờ học văn hóa, vừa hành quân người đi sau vừa học chữ trên những tấm bảng nhỏ treo trên lưng người đi trước. Mỗi chiến sĩ mang 30kg gạo, súng, đạn, thuốc nổ trên vai (Nhiều tác giả 2007: 719). Gặp trời mưa giữa đèo cao, dốc đứng, bộ đội đứng hàng giờ giữa suối, giữa đèo, mưa rát mặt mà không thể tìm ra chỗ ngồi nghỉ hoặc đặt tạm ba lô. Quần áo mặc trên người ướt lại khô, khô rồi lại ướt. (Nhiều tác giả 2007: 720).

Sau chiến dịch Biên Giới, chiếc xẻng là một trong những thứ trang bị của người lính xung kích. Xẻng dùng để đào hố tránh đại bác, đào hệ thống hầm (pháo, giấu xe, sinh hoạt, thương binh...). Mỗi hầm sinh hoạt có 3 người, có 2 giường bằng đất, căng vải dù. Nấu ăn dưới hầm, có kho dự trữ thực phẩm, có giếng nước trong vắt, bộ đội dùng gỗ hòm đạn lát trần, vách, ghép giường, bàn ghế. Những lúc nghỉ trong hầm, bộ đội đọc truyện, chơi tú lơ khơ, dùng vỏ đạn chế đèn dầu phục vụ sinh hoạt. Trong thời gian diễn ra chiến dịch Điện Biên, bằng những chiếc xẻng nhỏ bé, hệ thống hào trục (sâu 1,7m, đáy 1,2m), hào bộ binh (đáy 0,5m) mỗi ngày lại dài hơn, vây chặt kẻ thù. Mỗi chiến sĩ sau giờ ngủ buổi sáng, buổi chiều chuẩn bị gỗ, lá ngụy trang xây dựng trận địa, đến tối, từ nơi trú quân tiến ra cánh đồng đào trận địa. Gần cứ điểm, bộ đội chuyển sang đào dũi, không lộ thiên, đào cả ngày lẫn đêm.

Vượt lên gian khó, tại núi rừng Việt Bắc, những chiến sĩ làm công tác văn hóa không ngừng nghỉ làm báo, in, xuất bản nhiều loại báo chí đều đặn hàng ngày. Đặc biệt, có báo được in và phát hành, chuyển đến tay bộ đội ngay tại mặt trận Điện Biên Phủ (báo Quân đội Nhân dân). Bộ đội được xem triển lãm trong rừng, thưởng thức các chương trình giao lưu, văn nghệ, thấm đẫm tinh thần lạc quan yêu đời, vững tin vào cuộc kháng chiến nhất định thắng lợi, đất nước độc lập.

Trong những năm tháng ấy, nhiều chiến sĩ đã trở thành thi sĩ. Nhiều bài thơ mà tác giả chính là người chiến sĩ như Tây Tiến của Quang Dũng phác họa vẻ đẹp hào hùng và bi tráng, niềm vui và nỗi buồn của người chiến sĩ trong “đoàn quân không mọc tóc” thường bị sốt rét hoành hành, với màu da tái xanh và bị rụng tóc tiến lên vùng rừng núi Tây Bắc, giáp Lào năm 1948. Bài Đồng chí của Chính Hữu, ca ngợi tình đồng chí, đồng đội trong chiến đấu giữa những người cùng chịu những cơn “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”, cùng cảnh “áo rách vai, quần tôi có vài mảnh vá”, “chân không giầy”… Không chỉ những nhà thơ - chiến sĩ được lưu danh, còn có vô kể những lời ca, điệu hò vô danh được sinh ra qua mỗi chiến dịch của người chiến sĩ Việt Minh.

Trong mỗi người lính Việt Minh luôn chứa đựng một bản lĩnh, phẩm chất, một sức mạnh kỳ diệu được xây đắp lên từ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chính xác hơn đó là bản sắc dân tộc, đó là tiếng gọi từ con tim, từ dòng máu Việt. Người chiến sĩ Vệ quốc quân - Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp - những con người bình dị mà cũng thật anh dũng, hiên ngang là biểu tượng cao đẹp sẽ sống mãi với thời gian, với non sông đất nước.

Page 5: CuoäC soáng Cuûa ngöôøi Chieán só Vieät Minh

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

110

Tài liệu Tham khảo1. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị 2000. Chiến tranh cách mạng Việt

Nam 1945-1975 thắng lợi và bài học. Nxb. Chính trị Quốc gia. Hà Nội.2. Trần Thái Bình 2007. Võ Nguyên Giáp trong cuộc trường chinh thế kỷ. Nxb. Văn hóa Sài Gòn.3. Võ Nguyên Giáp 2006. Tổng tập hồi ký Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Nxb. Quân đội Nhân

dân. Hà Nội.4. Nhiều tác giả 2007. Lê Duẩn tiểu sử. Chương trình viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo của

Đảng và Nhà nước. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội.5. Đào Văn Xuân 2004. Những nẻo đường chinh chiến. Hồi ức của tác giả. Nxb. Hội Nhà văn

Việt Nam. Hà Nội.

DailY liFE oF ThE ViETmiNh SolDiERS iN ThE RESiSTaNCE WaR aGaiNST ThE FRENCh ColoNiSTS

Nguyễn Thị Tường KhanhIn order to unite people from all walks of life, as well as ethnic minority and religious groups,

the Vietminh Front was established on 19/5/1945 as a result. The front is a creation of President Hồ Chí Minh in the resistance war against the French colonialism and Japanese fascism.

In the resistance war against the French colonialism, in spite of many difficulties, the Vietminh soldiers all believed in the success of the resistance war, and expected an absolute freedom of the country. With optimistic thoughts, many Vietminh soldiers became poets, presenting vitality of the Vietminh soldiers in particular and Vietnamese people in general.

Through this article, the author aims to outline everyday life of the Vietminh soldiers who fought in the years from 1945 to 1954 in Việt Bắc (Northernmost Vietnam), central and northern Vietnam, as well as in other key battlefields.